CHIẾC XE ĐẠP CŨ
(Kính gửi thầy Lê Đình Kỵ)
Chiếc xe đạp cũ
Chẳng có chắn bùn
Ghi đông túi xách
Thầy lên giảng đường.
Những năm đạn lửa
Đập cửa từng nhà
Trường đi sơ tán
Đường xa Đại Từ.
Ngút ngàn gió thổi
Vạn Thọ mây chiều
Đông về giá rét.
Những năm gian khổ
Mở “Đường vào Thơ”
Giữa rừng Việt Bắc
Suối Đôi chảy xiết
Chẳng chia hai dòng
Lán nứa ven rừng
Luận bàn phương pháp
Văn chương Truyện Kiều.
Thời gian như nắng
Chuyền cành mùa xuân
Thời gian như nước
Trầm luân dòng đời.
Mấy chục năm trời
Lời thầy vẫn nhớ
ánh sáng phù sa
Cần thêm hơi lửa
Hãy mang sóng đến
Biển cồn trong thơ.
ánh trăng là quý
ánh trời quý hơn
Mặt trời gửi đất
Vẹn tròn vầng trăng
Rằm thu ngời sáng
Lương tri, công bằng.
Thầy nghe giục giã
Nhịp nhàng thời gian
Thiết tha Kiều gọi
Tân Thanh đoạn trường.
Chiếc xe đạp cũ
Thật mà như mơ
Bờ lau suối nhỏ
Còn in bóng thầy.
Chiếc xe đạp cũ
Chẳng cầu lợi danh
Một đời thanh bạch
Làm tập đại thành
Chiếc xe đạp cũ
Chẳng phải một thời
Vẫn còn đi tiếp
Xuân này, thầy ơi !
(Rút từ tập Người lữ hành thời gian NXB Hội Nhà văn, 2009)
NGÀY ẤY
Ngày ấy nhận giấy vào Đại học
Lần đầu tiên qua Hà Nội trong đêm
Thành phố thao thiết ánh đèn
Súng nổ rền trời vọng lại
Quanh Hồ Gươm công sự, chiến hào…
Đường lên Việt Bắc xa xôi
Trường Tổng hợp mang tên Hà Nội
Tiếng còi tàu, đêm heo hút gọi
Thung lũng Đại Từ bạt ngàn gió thổi
Trăng khuya bàng bạc chân trời.
Có chàng sinh viên mắt sáng
Áo nâu màu nhớ quê nhà
Ào ào suối chảy sau lán nứa
Chùm sim rụng tím mưa rừng
Sắn lùi thơm nóng chiều đông…
Đọc Truyện Kiều…
Dưới ngọn lửa thiêng
Ngọn đèn nhỏ
Bé bằng hạt gạo
Ngọn nến nghìn năm văn hiến
Sáng bừng thung lũng núi rừng.
Trang giấy học trò
Nặng tình đất nước
Gặp nhau ngày ấy
Một chiều mưa lũ mùa Xuân.
Việt Bắc 68- Hà Nội 2010
(Rút từ tập thơ Nơi thời gian trở về, NXB Hội Nhà văn, 2010)
Khuất Bình Nguyên
Sinh viên khóa 13, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội